Bệnh lý đột quỵ (đột quỵ não) là một trong những bệnh lý cấp cứu nguy hiểm, ảnh hưởng trực tiếp tới tính mạng và để lại các di chứng về sau nếu qua khỏi. Chúng tôi giới thiệu những kiến thức cơ bản và cập nhật về bệnh lý này để bạn đọc tham khảo. Đây là kiến thức dành cho mọi người, được biên soạn từ Family Caregiver Alliance.
Đột quỵ (đột quỵ não, stroke) là một tổn thương não xảy ra khi dòng máu cung cấp cho não bị gián đoạn hoặc giảm đáng kể. Não bị thiếu oxy, dinh dưỡng và các tế bào não bắt đầu chết trong vòng vài phút. Vì lý do đó, đột quỵ được coi là một tình huống cấp cứu y tế và cần có chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Theo tổ chức y tế thế giới đột quỵ não được định nghĩa như sau: Đột quỵ não là một hội chứng lâm sàng được đặc trưng bởi sự khởi phát đột ngột của các triệu chứng biểu hiện tổn thương của não (thường là khu trú), tồn tại trên 24 giờ hoặc bệnh nhân tử vong trước 24 giờ. Những triệu chứng thần kinh khu trú phù hợp với vùng não do động mạch bị tổn thương phân bố, loại trừ nguyên nhân chấn thương.
Đột quỵ, thường gọi là “tai biến mạch máu não”, là nguyên nhân hàng đầu của tàn tật và tử vong trên toàn thế giới.
Gần 800.000 người Mỹ bị đột quỵ hàng năm—xấp xỉ 137.000 người trong số đó tử vong và cuộc sống của những người sống sót thay đổi mãi mãi.
Ngày nay có khoảng 6,5 triệu người sống sót qua đột quy đang sống ở Mỹ. Nhiều năm trước, đột quỵ được coi là không thể chữa trị, nhưng điều này không còn đúng nữa, đặc biệt là với các kỹ thuật mới hiện nay.
Gây ra bởi tắc nghẽn trong động mạch, chiếm khoảng 85% số ca đột quỵ. Mặc dù có những đánh giá trên diện rộng, nhiều cơn đột quỵ thuộc dạng này vẫn còn chưa rõ nguyên nhân. May mắn thay, các liệu pháp dự phòng có hiệu quả cho tất cả các loại đột quỵ do thiếu máu cục bộ.
Các loại đột quỵ do thiếu máu cục bộ phổ biến là:
– Đột quỵ do huyết khối: Một cục máu đông (huyết khối) hình thành trong một động mạch ở cổ hoặc não. Những động mạch này có thể có tích tụ chất béo, gọi là các mảng bám.
– Đột quỵ do tắc mạch: Tắc nghẽn bởi các cục máu đông hình thành ở đâu đó trong cơ thể (thường là tim) và di chuyển đến não. Nguồn phổ biến thường là nhịp bất thường ở hai buồng phía trên của tim (rung tâm nhĩ), có thể làm hình thành cục máu đông.
Xuất huyết não là tình trạng chảy máu trong não. Loại đột quỵ này được gây ra bởi sự rò rỉ hoặc vết nứt trên một động mạch não hoặc trên bề mặt não. Những vết nứt này có thể là do phình mạch (một khu vực mỏng, yếu trên thành động mạch) hoặc bởi sự dị dạng của hệ thống mạch máu não.
Xuất huyết có thể xuất hiện ở trong não, hoặc trong khoảng không giữa não và lớp bảo vệ bên ngoài của nó. Khoảng 15% trường hợp đột quỵ là do xuất huyết.
Thường gọi là đột quỵ nhỏ, TIA thực chất là những giai đoạn ngắn có triệu chứng của đột quỵ, thường chỉ kéo dài vài phút. TIA được gây ra bởi sự giảm tạm thời dòng máu cung cấp cho một phần của não, và không gây ra tác dụng rõ rệt lâu dài. Nhưng TIA được coi là dấu hiệu cảnh báo nguy cơ đột quỵ cao hơn, và cần được đánh giá ngay bởi bác sĩ chuyên khoa.
Các dấu hiệu cảnh báo của đột quỵ và TIA giống nhau, và bao gồm sự xuất hiện đột ngột và ngắt quãng của:
– Liệt cấp tính, yếu hoặc tê cứng mặt, cánh tay hoặc chân, đặc biệt là một bên của cơ thể. Nếu bạn không thể nâng hai tay qua đầu cùng một lúc, hoặc nếu bạn không thể cười một cách bình thường, bạn có thể đang bị đột quỵ.
– Mất thăng bằng đột ngột, chóng mặt, mất phối hợp.
– Mờ mắt hoặc giảm thị lực ở một hoặc cả hai mắt đột ngột, hoặc nhìn đôi.
– Lú lẫn đột ngột, khó nói hoặc không hiểu các câu đơn giản. Nếu bạn không thể nhắc lại một câu đơn giản, bạn có thể đang bị đột quỵ.
– Đau đầu khu trú nghiêm trọng, không giải thích được và xuất hiện nhanh; có thể kèm theo nôn mửa.
Nguy cơ đột quỵ cao hơn nếu thấy xuất hiệu nhiều hơn một trong các dấu hiệu này. Tuy nhiên, có nhiều tình trạng khác có thể giống đột quỵ, và cần phải có một chuyên gia y tế xác định nguyên nhân của các triệu chứng này. Việc học cách nhận biết các dấu hiệu này là quan trọng, và nếu có thể, chú ý ngay khi chúng bắt đầu. Mặc dù chúng có thể không gây đau và thậm chí qua đi nhanh chóng, chúng là những dấu hiệu cảnh báo rõ ràng rằng một cơn đột quỵ đã xảy ra hoặc có thể sắp xuất hiện.
Mỗi phút đều có ý nghĩa: bạn được điều trị càng sớm (lý tưởng là trong vòng 60 phút), nguy cơ xuất hiện tổn thương vĩnh viễn càng giảm. Nếu bạn thấy có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo đột quỵ nào, liên hệ với bác sĩ hoặc người chăm sóc sức khỏe của bạn, đi đến nơi cấp cứu hoặc gọi ngay cho số điện thoại cấp cứu y tế.
Các dấu hiệu đột quỵ theo quy tắc F.A.S.T.
Trong trường hợp có thể có đột quỵ, sử dụng từ viết tắt FAST để giúp ghi nhớ các dấu hiệu cảnh báo:
– Face (mặt) – Có xệ mặt một bên trong khi cố gắng mỉm cười không?
– Arms (tay) – Một cánh tay có thấp hơn trong khi cố gắng giơ cả hai tay lên không?
– Speech (lời nói) – Có thể nói và nhắc lại một câu đơn giản được không? có nói lắp hoặc nói kỳ lạ (khó hiểu) hay không?
– Time (thời gian) – Thời gian đột quỵ được tính tới từng giây từng phút. Nếu phát hiện được bất cứ dấu hiệu nào thì gọi số 115 hoặc số dịch vụ y tế cấp cứu tại địa phương bạn ngay lập tức.
Khi đưa ra cụm từ viết tắt F.A.S.T. (tương ứng với mỗi dấu hiệu cảnh báo theo nghĩa tiếng Anh), ngoài mục đích giúp cộng đồng dễ nhớ thì nó còn có ý nghĩa trong tiếng Anh là NHANH CHÓNG.
Việc xác định đúng nguyên nhân căn bản và vị trí của đột quỵ sẽ quyết định việc điều trị. Công nghệ y tế tiên tiến đã làm tăng rõ rệt khả năng chẩn đoán chính xác đột quỵ và đánh giá tổn thương đến não bộ. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng dễ nhận biết các cơn đột quỵ nhỏ vì triệu chứng có thể bị bỏ qua bởi bệnh nhân và gia đình do hiểu nhầm đó là do lão hóa, hoặc có thể bị nhầm lẫn với các triệu chứng của các bệnh thần kinh khác. Như đã lưu ý ở trên, bất kỳ dấu hiệu cảnh báo đột quỵ nào cần cũng cần phải đánh giá y tế ngay lập tức.
“Càng mất nhiều thời gian, tổn thương não càng nghiêm trọng hơn”
Phương tiện chẩn đoán đột quỵ và nguyên nhân đột quỵ chủ yếu hiện nay là cắt lớp vi tính (CT) và cộng hưởng từ (MRI). CT là công cụ sử dụng đầu tiên nhằm chẩn đoán hoặc loại trừ xuất huyết não. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh này ngày càng hiện đại và nhanh chóng phát hiện các dấu hiệu đột quỵ và nguyên nhân gây ra đột quỵ ngay trong giai đoạn sớm.
Các công nghệ mới như cắt lớp vi tính (CT) tưới máu não, hình ảnh MRI tưới máu và khuếch tán giúp đánh giá vùng mô não có khả năng phục hồi hay có nguy cơ tiến triển thành nhồi máu. Một phương pháp khác là DSA can thiệp mạch máu não, vừa chẩn đoán vừa can thiệp cấp cứu trong một số trường hợp.
Đây là các kiến thức chuyên sâu dành cho nhân viên y tế nên chúng tôi không đi sâu vào các kỹ thuật này.
Nhiều yếu tố nguy cơ khiến một người dễ bị đột quỵ hơn. Các nguy cơ này bao gồm các yếu tố có thể kiểm soát được (những điều bạn có thể thay đổi) và không thể kiểm soát được (những điều bạn không thể thay đổi). Tin tốt là có thể phòng tránh được hơn một nửa số loại đột quỵ bằng chăm sóc y tế và thay đổi lối sống.
– Tăng huyết áp (cao huyết áp): Nguy cơ đột quỵ bắt đầu tăng khi huyết áp duy trì ở trên mức 115/75. Cao huyết áp, nguyên nhân hàng đầu của đột quỵ, làm tổn thương thành động mạch và có thể làm tăng hoạt động đông máu, dẫn đến sự hình thành các cục máu đông gây đột quỵ. Do cao huyết áp có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ hai đến sáu lần, kiểm soát huyết áp giúp giảm nguy cơ đáng kể. Có sẵn một số thuốc giúp kiểm soát cao huyết áp.
– Hút thuốc: Hút thuốc làm tăng gấp đôi nguy cơ đột quỵ. Bên cạnh việc gây hại cho phổi, hút thuốc cũng làm tổn thương thành mạch máu, làm tăng quá trình xơ cứng động mạch, khiến tim làm việc nhiều hơn và làm tăng huyết áp. Phơi nhiễm với hút thuốc thụ động cũng làm tăng nguy cơ đột quỵ. Tin tốt là, nếu bạn dừng hút thuốc hôm nay, trong vòng hai đến năm năm, nguy cơ đột quỵ của bạn sẽ ngang với người chưa bao giờ hút thuốc.
– Cholesterol cao và thừa cân: Mức cholesterol từ 200 trở xuống là tốt nhất cho người trưởng thành. Cholesterol thừa có thể tích tụ trên thành động mạch và dẫn đến tắc những mạch này. Thừa cân làm quá tải toàn bộ hệ tuần hoàn và mở đường cho các yếu tố nguy cơ khác của đột quỵ, như là cao huyết áp. Lối sống ngồi yên ít vận động làm gia tăng nguy cơ. Uống các thuốc statin làm giảm cholesterol có thể giảm nguy cơ đột quỵ.
Bạn có thể không thể thay đổi các yếu tố sau, nhưng bạn có thể giảm thiểu ảnh hưởng của chúng lên nguy cơ đột quỵ chung bằng cách tập trung vào các yếu tố có thể kiểm soát được ở trên.
– Tuổi tác: Mặc dù người trẻ tuổi có thể bị đột quỵ, nguy cơ đột quỵ tăng gấp đôi mỗi 10 năm kể từ tuổi 55.
– Giới tính: Nam giới có nguy cơ đột quỵ cao hơn một chút so với nữ giới.
– Chủng tộc: Người Mỹ gốc Phi có nguy cơ đột quỵ cao hơn gần gấp đôi so với người da trắng.
– Tiền sử gia đình: Bạn có nguy cơ bị đột quỵ cao hơn nếu gia đình có người từng bị đột quỵ.
– Đái tháo đường: Các vấn đề về tuần hoàn liên quan đến đái tháo đường có thể tăng nguy cơ đột quỵ thậm chí là khi mức đường huyết và insulin được kiểm soát chặt chẽ.
– Bệnh tim mạch: Bị đau tim có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ của bạn. Một yếu tố nguy cơ bổ sung là một bất thường ở tim được gọi là rung tâm nhĩ (AF), một loại bất thường nhịp tim đặc biệt ảnh hưởng đến trên một triệu người Mỹ. Thông thường, cả bốn buồng tim của trái tim đập theo cùng một nhịp, khoảng 60 đến 100 lần một phút. Ở người bị AF, tâm nhĩ trái có thể đập nhanh và không kiểm soát được lên đến 400 lần một phút. Nếu không được điều trị, AF có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ của bạn từ 4 đến 6 lần. Thuốc có thể giúp điều trị tình trạng này.
– Đột quỵ tái phát: Một người có tiền sử đột quỵ có nguy cơ cao bị một lần đột quỵ khác. Nguy cơ cao này kéo dài xấp xỉ năm năm và giảm dần theo thời gian; nguy cơ cao nhất là trong vòng vài tháng đầu tiên. Bên cạnh chú ý tới những yếu tố nguy cơ đột quỵ có thể kiểm soát được, những người trải qua đột quỵ có thể hưởng lợi từ thuốc kê đơn để giảm nguy cơ đột quỵ của mình.
– Cơn thiếu máu não thoáng qua: Bị một cơn thiếu máu não thoáng qua (TIA) làm tăng nguy cơ bị đột quỵ lớn trong tháng, thường là trong hai ngày. Các thuốc, bao gồm aspirin có thể được kê để giúp ngăn ngừa cơn đột quỵ trong tương lai.
Bên cạnh các yếu tố nguy cơ trên, đột quỵ cũng có liên quan đến việc sử dụng rượu nhiều (đặc biệt là uống quá độ); sử dụng các thuốc trái luật như cocain và methamphetamin; tăng lượng hồng cầu; đau nửa đầu kèm hoa mắt (rối loạn thị giác); thuốc tránh thai và liệu pháp thay thế hormon với estrogen. Chưa có chứng minh nào chỉ ra có mối quan hệ trực tiếp giữa căng thẳng và nguy cơ đột quỵ. Cũng như với nhiều tình trạng, tập luyện tối thiểu 30 phút mỗi ngày trong tuần làm giảm nguy cơ đột quỵ.
Một trong những nguyên nhân cho sự khẩn cấp của việc đánh giá các dấu hiệu cảnh báo đột quỵ là các nhà nghiên cứu đã phát hiên ra rằng tổn thương não do đột quỵ có thể lan ra ngoài khu vực bị ảnh hưởng bởi đột quỵ và có thể trở nên nặng hơn trong vòng 24 giờ đầu tiên. Nhân viên y tế tìm cách hạn chế hoặc phòng ngừa tổn thương thứ phát này bằng các loại thuốc riêng trong vòng một vài giờ đầu tiên sau đột quỵ nếu phù hợp.
Khi đột quỵ xảy ra, nhập viện là cần thiết để xác định nguyên nhân và loại đột quỵ và để điều trị hoặc ngăn ngừa các biến chứng tiếp theo. Có thể cần điều trị bằng can thiệp mạch não, phẫu thuật cũng như bằng thuốc. Các phương pháp điều trị cụ thể và chỉ định chuyên sâu nên không đề cập ở đây.
Một khi tình trạng của người sống sót sau đột quỵ đã ổn định và sự thiếu hụt thần kinh có vẻ không còn tiếp diễn, giai đoạn phục hồi chức năng bắt đầu. Phục hồi chức năng không chữa được đột quỵ. Thay vào đó, nó tập trung vào việc giảm thiểu tổn thương vĩnh viễn và tăng cường thích nghi. Phục hồi chức năng có thể bao gồm việc tập luyện tích cực các lĩnh vực khác nhau bao gồm chuyển động, thăng bằng, nhận thức về không gian và cơ thể, kiểm soát ruột/bàng quang, ngôn ngữ và các phương pháp mới về thích nghi tâm lý và cảm xúc. Chương trình phục hồi chức năng sau đột quỵ bao gồm các nỗ lực phối hợp của nhiều chuyên gia y tế.
Xấp xỉ 80% số người sống sót sau đột quỵ bị thâm hụt về thể chất, nhận thức và ngôn ngữ mà có thể được giúp đỡ thông qua phục hồi chức năng. Đôi khi có người không nhận được các dịch vụ họ cần vì các dịch vụ này không được giới thiệu tới họ hoặc vì bên bảo hiểm thông báo rằng họ không bao trả chi phí đó. Bạn có thể cần hỏi nhiều và kiên quyết để có được sự trợ giúp mình cần. Một người lên kế hoạch xuất viện có thể giúp đỡ bằng cách cấp giấy giới thiệu đến các trung tâm phục hồi chức năng. Một nhân viên xã hội có thể có ích khi cần thực hiện các thu xếp đặc biệt cho việc chăm sóc dài hạn và giới thiệu tới các nguồn lực cộng đồng.
Phục hồi sau đột quỵ khác nhau: một số người có thể phục hồi hoàn toàn trong khi những người khác sẽ bị khuyết tật nhẹ, trung bình hoặc nghiêm trọng. Phục hồi nhanh nhất xảy ra trong vòng 30 ngày đầu tiên sau đột quỵ. Hậu quả cụ thể trên một người sống sót sau đột quỵ sẽ phụ thuộc vào vị trí và phạm vi của đột quỵ và việc người đó đã được điều trị nhanh như thế nào. Đột quỵ xảy ra ở bán cầu não trái có thể ảnh hưởng đến giao tiếp và trí nhớ, cũng như vận động ở phần cơ thể bên phải. Đột quỵ xảy ra ở bán cầu não phải có thể ảnh hưởng đến các khả năng không gian và nhận thức, cũng như vận động ở phần cơ thể bên trái.
Mặc dù không có hai người sống sót sau đột quỵ nào có tổn thương hoặc khuyết tật giống hệt nhau, những triệu chứng thể chất, nhận thức và cảm xúc chung của những người này thường là:
– Tê liệt hoặc yếu: Thường là ở một bên cơ thể, bao gồm cả mặt và miệng. Bệnh nhân có thể bị khó nuốt hoặc bị bỏ mặc một bên (lờ hoặc quên mất phần cơ thể bị ảnh hưởng).
– Vấn đề thị giác: Bệnh nhân có thể không tập trung nhìn được, có thể có điểm mù hoặc có vấn đề với tầm nhìn ngoại vi.
– Khó khăn trong giao tiếp: Mất ngôn ngữ là khái niệm được dùng để mô tả tập hợp sự thiếu hụt về giao tiếp, bao gồm gặp vấn đề khi nói, hiểu, đọc và viết.
– Rối loạn cảm xúc: Biểu hiện không kiểm soát, không lý giải được của hành động khóc, tức giận hoặc cười mà có thể ít có liên hệ đến trạng thái cảm xúc hiện tại của bệnh nhân. Những biểu hiện này thường đến và đi nhanh chóng và có thể giảm dần theo thời gian.
– Trầm cảm: Lo âu (đặc biệt là về khả năng gặp một cơn đột quỵ khác) và trầm cảm không phải là hiếm gặp sau đột quỵ, và có thể có nguyên nhân sinh lý và tâm lý. Có thể dùng thuốc để giảm nhẹ những triệu chứng này.
Việc chăm sóc một người bị đột quỵ là thử thách. Các khả năng hành vi, ghi nhớ, giao tiếp và thể chất đều có thể bị ảnh hưởng bởi đột quỵ. Khi một người yêu quý phải nhập viện lần đầu tiên ngay sau khi bị đột quỵ, các gia đình thường tham gia giúp cung cấp thông tin về tiền sử và triệu chứng của bệnh nhân, kiểm tra việc điều trị, trao đổi về các lựa chọn chăm sóc bệnh nhân và nhìn chung đóng vai trò kết nối giữa nhân viên bệnh viện và bệnh nhân. Bạn đột nhiên trở thành người phát ngôn và ủng hộ chính của bệnh nhân.
Khi quá trình điều trị tiến triển, bạn, với vai trò là người chăm sóc chính, cũng có thể tham gia vào việc lựa chọn cơ sở phục hồi chức năng, phối hợp các dịch vụ chăm sóc tại nhà, cung cấp vận chuyển, giữ nhà và nấu ăn và giao tiếp với các bác sỹ và nhân viên phục hồi chức năng. Khi thời gian trôi qua và những thiếu hụt vẫn còn tồn tại, bạn cũng có thể phải đối phó với sự trầm cảm của bệnh nhân, nhu cầu chăm sóc thể chất, phối hợp chăm sóc tại nhà với các liệu pháp nghề nghiệp, lời nói hoặc thể chất, hỗ trợ giao tiếp nếu bệnh nhân bị suy giảm khả năng giao tiếp và cung cấp sự khuyến khích về tâm lý và xã hội.
Sẽ có ích khi nhớ rằng bạn không thực hiện công việc này một mình—có sẵn trợ giúp trong cộng đồng và điều quan trọng là phải tìm kiếm. Phục hồi chức năng có thể là một quá trình lâu dài với tiến triển chậm chạp và đôi khi thất thường—quá trình phục hồi của mỗi người đều khác nhau. Vai trò ủng hộ của bạn vẫn sẽ tiếp tục. Trong khi hồi phục, hãy cố găng tập trung vào khả năng của bệnh nhân hơn là hạn chế của họ, và khuyến khích họ mỗi khi có tiến bộ, dù lớn hay nhỏ.
Mặc dù chăm sóc cho người mình yêu quý có thể tốn nhiều thời gian, hãy cố gắng chú ý tới sức khỏe của chính bạn và cách mà bất kỳ căng thẳng nào có thể ảnh hưởng đến bạn. Để tránh kiệt sức về việc chăm sóc, hãy cố gắng ngủ đủ, ăn uống lành mạnh, chú ý đến nhu cầu y tế của bản thân và tập luyện khi có thể.
Trợ giúp về tư vấn và nghỉ ngơi (tức là tạm giao việc chăm sóc cho một thành viên trong gia đình, bạn bè hoặc người chăm sóc được thuê) có thể cho phép bạn có một khoảng thời gian một mình để tập hợp và làm mới năng lượng cho những công việc phía trước. Hãy nhớ yêu cầu trợ giúp khi bạn thấy cần. Tìm trợ giúp cho chính bạn, cũng như cho người bạn yêu thương, là cần thiết và có lợi cho cả người mà bạn chăm sóc và bạn.
Thông tin này được chuẩn bị bởi Liên Hiệp Người Chăm Sóc Gia Đình và được đánh giá bởi Điều dưỡng đã đăng ký Thelma Edwards, Hiệp Hội Đột Quỵ Quốc Gia và Tiến sỹ, Trợ lý bác sỹ Freddi Segal-Gidan, Trường Đại Học Y Keck, Đại Học Nam California, Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng Quốc Gia Rancho Los Amigos và bởi Hiệp Hội Đột Quỵ Peninsula. © 2016-2020 Family Caregiver Alliance.