các nhà cái uy tín đổi thưởng uy tín nhất hiện nay - App game đổi thưởng uy tín

các nhà cái uy tín đổi thưởng uy tín nhất hiện nay
các nhà cái uy tín đổi thưởng uy tín nhất hiện nay
Tuyển sinh Đại học 2024
Kết nối với chúng tôi qua Zalo:

Nghiên cứu mới: Sự tăng giảm dịch COVID-19 không liên quan đến tỷ lệ tiêm chủng

Sau khi vắc-xin virus corona mới ra đời, nó được coi là giải pháp cho đại dịch, nhiều chính phủ đã thúc đẩy mạnh mẽ việc tiêm chủng để tăng tỷ lệ việc bao phủ vắc-xin. Tuy nhiên, nghiên cứu mới nhất được công bố trên Tạp chí Dịch tễ học châu Âu (European Journal of Epidemiology) cho thấy sự gia tăng và giảm của dịch không liên quan trực tiếp đến tỷ lệ tiêm chủng. Các chuyên gia về bệnh truyền nhiễm cho rằng để chống lại virus, con người cũng nên tìm cách ngăn chặn dịch từ chính mình.

Nghiên cứu mới nhất được công bố trên Tạp chí Dịch tễ học châu Âu (European Journal of Epidemiology) cho thấy sự gia tăng và giảm của dịch không liên quan trực tiếp đến tỷ lệ tiêm chủng.

 

Nghiên cứu: Tỷ lệ tiêm chủng không có mối quan hệ rõ ràng với xu hướng của dịch

Với sự bùng phát của dịch bệnh ở nhiều quốc gia trên thế giới, sự gia tăng các ca nhiễm virus corona mới thường được cho là có liên quan đến những người chưa được tiêm phòng. Tuy nhiên, các học giả từ Đại học Harvard và Đại học Bang Pennsylvania ở Mỹ đã nghiên cứu dịch virus corona mới ở 68 quốc gia và nhận thấy rằng không có mối quan hệ rõ ràng nào giữa tỷ lệ phần trăm dân số được tiêm chủng và các trường hợp nhiễm mới.

Ở 68 quốc gia này, dù là tỷ lệ tiêm chủng cao hay thấp, tình hình dịch bệnh vẫn tăng vọt. Nghiên cứu lấy Israel làm ví dụ: Mặc dù hơn 60% dân số Israel đã được tiêm phòng đầy đủ nhưng số ca được xác nhận trên 1 triệu người là cao nhất.

Tiến sĩ Lâm Hiểu Húc (Lin Xiaoxu), cựu Giám đốc Khoa virus của Viện Nghiên cứu Quân đội Mỹ, giải thích rằng nếu tiêm chủng rất hiệu quả trong việc kiểm soát dịch bệnh, thì trong biểu đồ dựa trên dữ liệu của từng quốc gia, hầu hết các quốc gia có tỷ lệ tiêm chủng tăng cao phải có số ca xác nhận lây nhiễm giảm, và đường vẽ sẽ cho thấy xu hướng thấp dần về bên phải và cao dần về bên trái. “Tuy nhiên, phân tích dữ liệu đồng thời của 68 quốc gia này, thì lại không có quy luật này. Hơn nữa, ở mức độ nhất định là có xu hướng ngược lại một chút.”

Nghiên cứu cũng nhắm mục tiêu đến 2.947 quận ở Mỹ, phân tích số trường hợp được xác nhận lây nhiễm và tỷ lệ tiêm chủng trong hai tuần. Tuy nhiên, không phát hiện thấy những thay đổi mà mọi người mong muốn là càng nhiều người tiêm chủng, số trường hợp được xác nhận sẽ càng giảm.

Dự vào số liệu phân tích của 68 quốc gia này cho thấy, tỷ lệ tiêm chủng vắc-xin cao và thấp không có liên quan nhiều đến xu hướng dịch bệnh.

Ngược lại, trong số 5 quận có tỷ lệ dân số được tiêm chủng đầy đủ cao nhất (84,3% đến 99,9%), bốn trong số đó được Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Hoa Kỳ phân loại là các quận “có khả năng lây truyền cao”.

Trong số 57 quận được CDC phân loại là “mức độ lây truyền thấp“, 26% quận có dân số được tiêm chủng đầy đủ dưới 20%.

 

Trong số 2.947 quận ở Mỹ, số ca xác nhận lây nhiễm mới và tỷ lệ tiêm chủng không có liên quan quá lớn.

Nghiên cứu được đánh giá, và được xuất bản chính thức trên Tạp chí Dịch tễ học Châu Âu vào tháng Chín. Dưới đây là bốn điểm chính ở cuối báo cáo:

Cần phải kiểm tra lại việc sử dụng vắc-xin là phương tiện duy nhất để phòng chống dịch và các tác dụng bất lợi của nó. Đặc biệt là xem xét biến thể Delta và khả năng có các biến thể khác trong tương lai. Khi tăng tỷ lệ tiêm chủng, cần xem xét các loại thuốc và các phương pháp phòng bệnh không dùng thuốc khác.

Mặc dù tiêm chủng có thể ngăn ngừa bệnh nặng và tử vong, nhưng báo cáo của CDC Mỹ chỉ ra rằng từ tháng Một đến tháng Năm năm nay, tỷ lệ nhập viện của những bệnh nhân được tiêm chủng đầy đủ đã tăng từ 1% lên 9%, và tỷ lệ tử vong tăng từ 0% lên 15,1%.

Việc kỳ thị những người chưa tiêm chủng gây hại nhiều hơn có lợi.

Phòng dịch bằng những biện pháp không dùng thuốc khác như duy trì khoảng cách an toàn về mặt xã hội, rửa tay thường xuyên, v.v.

Tiến sĩ Sean Lin (Lâm Hiểu Húc), chuyên gia về virus học từng phụ trách phòng thí nghiệm virus của Viện Nghiên cứu Quân đội Mỹ, chỉ ra rằng các số liệu của CDC Mỹ cho thấy gánh nặng của các loại virus biến thể đối với dịch bệnh địa phương vượt quá nỗ lực thúc đẩy tiêm chủng. Bởi vì các virus biến thể này cũng có khả năng thoát miễn dịch ở một mức độ nhất định. Ông tin rằng nghiên cứu này chỉ ra một vấn đề rõ ràng, có những yếu tố khác sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch bệnh.

Phòng dịch không thể chỉ dựa vào vắc-xin

Nếu vắc-xin không phải là nguyên nhân chính, vẫn còn những nhân tố nào ảnh hưởng đến xu hướng của dịch bệnh?

Đợt dịch thứ năm trên thế giới bắt đầu từ giữa đến cuối tháng Sáu, sau 3 tháng, cuối cùng đã giảm vào giữa tháng Chín. Bà Đổng Vũ Hồng (Dong Yuhong), một chuyên gia về virus học và bệnh truyền nhiễm châu Âu, đồng thời là nhà khoa học trưởng của một công ty công nghệ sinh học, chỉ ra rằng kể từ khi bắt đầu xảy ra đại dịch, 5 đợt dịch xuất hiện trên khắp thế giới dường như có một quy luật: Từ thời điểm vừa bắt đầu đợt dịch, đến khi đạt đến đỉnh điểm và xuất hiện bước ngoặt, thì đều trải qua thời gian khoảng 3 tháng.

Hiện tượng này dường như không có nhiều thay đổi do việc tiêm chủng đại trà trên toàn cầu. Vì vậy, liệu sự lên xuống của dịch bệnh không hoàn toàn bị giới hạn bởi các biện pháp mà con người sử dụng như tiêm vắc-xin, mà có liên quan đến một số đặc điểm của chính loại virus corona mới. Bà Đổng Vũ Hồng cho biết, điều này cần các nhà khoa học nghiên cứu thêm.

Tiến sĩ Đổng Vũ Hồng (Ảnh: YouTube)

Ngoài ra, sự bảo vệ bằng vắc-xin chỉ là một phần của việc phòng chống dịch bệnh, tình hình sức khỏe và khả năng miễn dịch của mỗi người cũng rất quan trọng. Khi khả năng miễn dịch của một người mạnh mẽ, nó có thể làm giảm xác suất lây nhiễm, và thậm chí giảm nguy cơ bệnh nặng.

Ví dụ, tế bào biểu mô của con người là một trong những hàng rào miễn dịch tự nhiên, chúng có thể tiết ra interferon, một chất quan trọng cản trở sự nhân lên của virus. Đại học Louisville của Mỹ đã công bố một nghiên cứu trên Tạp chí khoa học Nature và chỉ ra rằng, người bệnh nhiễm virus corona giai đoạn đầu, nếu interferon tiết ra càng nhiều thì bệnh tình sẽ nhẹ. Điều này có nghĩa mức độ interferon tương đối cao, thì có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh COVID-19 nghiêm trọng.

Mức độ interferon tương đối cao có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh COVID-19 nghiêm trọng.

Bà Đổng Vũ Hồng cho rằng ngoài việc nghiên cứu tác động của các yếu tố bên ngoài như vắc-xin đối với dịch bệnh, cũng cần tìm ra các yếu tố bên trong khiến cơ thể con người dễ bị nhiễm bệnh. Ví dụ, kiểm tra xem liệu cơ thể có hấp thụ dinh dưỡng đều hay không, hút thuốc và uống rượu, làm việc và nghỉ ngơi không có quy luật, các vấn đề về cảm xúc và tinh thần, v.v. Những thứ này sẽ làm tổn hại đến khả năng miễn dịch của cơ thể.

Đồng thời, chúng ta cũng phải chú ý đến trạng thái năng lượng của chính mình. Bà Đổng Vũ Hồng giải thích rằng năng lượng được đề cập ở đây không phải là một khái niệm trừu tượng. Y sinh học hiện đại có thể đo năng lượng của sự tồn tại sinh học, ví dụ năng lượng ở cấp độ tế bào là ATP. Trái tim con người cần năng lượng để đập, nói và làm mọi việc cũng đều cần năng lượng. Thể lực khỏe mạnh, trạng thái tinh thần tốt, khả năng kiểm soát cảm xúc bản thân tốt đều là dấu hiệu của năng lượng dồi dào, nhóm người này sẽ có sức đề kháng tốt hơn.

Ngược lại, các bệnh do virus gây ra sẽ làm suy kiệt năng lượng của cơ thể. Các triệu chứng lâu dài của bệnh virus corona mới (di chứng của bệnh virus corona mới) theo công bố của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) bao gồm mệt mỏi và suy nhược sâu. Những triệu chứng này là biểu hiện của cơ thể bị thiếu năng lượng. Bà Đổng Vũ Hồng lấy ví dụ, một bệnh nhân mắc các triệu chứng bệnh virus corona trong thời gian dài, làm bữa sáng xong thì không còn sức để ăn nữa, bởi vì mức năng lượng đã rất thấp.

Bà Đổng Vũ Hồng cho rằng phòng chống dịch không chỉ dựa vào vắc-xin mà còn phải tự bảo vệ bản thân, đồng thời bắt tay từ việc làm thế nào để tăng cường lực miễn dịch và mức năng lượng của cơ thể, thì mới có thể tránh xa virus và giảm tổn hại do virus gây ra đối với cơ thể từ căn bản.

Tài liệu nguồn:

1.
2. Bài viết nghiên cứu. Download
3. Báo cáo khoa học. Download